"Ảnh hưởng của những hệ thống cung cấp nông nghiệp khác nhau đối với việc xúc tiếp với thuốc trừ sâu trong chế độ ăn uống là một thắc mắc được các nhà khoa học, cơ quan điều hành và công chúng quan tâm, Bên cạnh đó rất ít phân tích thực nghiệm về dữ liệu dư lượng đáp ứng được câu hỏi này. Dữ liệu đầy đủ về dư lượng thuốc trừ sâu trong thực phẩm được trồng theo cách thức hữu cơ, thực phẩm được phân phối phê chuẩn điều hành dịch hại tổng hợp (IPM), các thực phẩm được chứng nhận là không chứa dư lượng có thể phát hiện (NDR) và thực phẩm không có công bố trên thị trường (được cho là được trồng thông thường) hiện đã tồn tại, cho phép nghi vấn này để được trả lời.
các nhà nghiên cứu đã phân tách dữ liệu thử nghiệm về dư lượng thuốc trừ sâu trong hơn 94 000 dòng thực phẩm hữu cơ và không hữu cơ của khoảng 20 loại cây trồng khác nhau được thử nghiệm trong gần một thập kỷ. Dữ liệu được thu thập từ ba nguồn độc lập của Hoa Kỳ: các cuộc thử nghiệm do Hiệp hội Người tiêu dùng (CU) thực hành vào năm 1997 trên 1 số loại thực phẩm được chọn; những cuộc thăm dò do Chương trình Dữ liệu Thuốc trừ sâu của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ thực hiện về dư lượng trong phổ biến dòng thực phẩm có sẵn trên thị trường Hoa Kỳ; và Cục Quy định Thuốc trừ sâu California thăm dò về dư lượng trong thực phẩm được bán ở California.
điểm đặc sắc của nghiên cứu:
Dữ liệu của USDA cho thấy 73% sản phẩm trồng thông thường có ít ra 1 dư lượng thuốc trừ sâu, khi mà chỉ 23% những mẫu trồng hữu cơ của cộng một cái cây trồng có dư lượng.
thể nghiệm thứ 2 được thực hành dựa trên dữ liệu của USDA, dòng trừ dư lượng của thuốc trừ sâu hữu cơ clo hóa lâu bị cấm, khó phân hủy với môi trường, chả hạn như DDT, dieldrin và chlordane (tức là dư lượng do ô nhiễm môi trường, chứ chẳng hề do sự dị biệt trong cách sản xuất cây trồng). Phần chiếc hữu cơ dương tính giảm từ 23 % xuống 13 %, nhưng các loại thường nhật chỉ giảm từ 73 phần trăm xuống 71 65_
Hơn 90% cái táo, đào, lê, dâu tây và cần tây được trồng thông thường của USDA có dư lượng.
những chiếc cây trồng thông thường có nguy cơ cất rộng rãi dư lượng thuốc trừ sâu cao gấp sáu lần.
Trong thử nghiệm của Tiểu bang California, dư lượng được tìm kiếm thấy trong gần một phần ba số thực phẩm được trồng thông thường, nhưng chỉ trong
6,5 phần trăm chiếc hữu cơ. những nhà nghiên cứu nhận xét rằng dữ liệu của California dựa trên những thí nghiệm với những phương pháp phân tích ít mẫn cảm hơn so với những cách được dùng để tạo dữ liệu USDA và Do đó, không bao gồm nhiều dư lượng cấp tốt được phát hiện bằng những bí quyết thể nghiệm của USDA.
thí nghiệm ở California cũng cho thấy dư lượng thuốc trừ sâu rộng rãi hơn 9 lần trong những mẫu bình thường so với các cái hữu cơ.
các thể nghiệm của CU cho thấy dư lượng trong 79% loại được trồng thường ngày và 27% loại được trồng theo phương pháp hữu cơ, với phổ thông dư lượng gấp sáu lần so với mức phổ thông trước đây.
Kết quả đối với những chiếc IPM / NDR ở khoảng giữa những chiếc hữu cơ và thường nhật.
phân tách này cho thấy 1 cách thức thuyết phục rằng thực phẩm được trồng theo cách hữu cơ có ít dư lượng thuốc trừ sâu hơn và đại quát là thấp hơn so với thực phẩm được trồng thông thường. Không những thế, phân tách cho thấy rằng thực phẩm hữu cơ chẳng phải là không có thuốc trừ sâu, do phổ thông nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của người dân cày hữu cơ (ví dụ như thuốc trừ sâu phun từ ruộng phụ cận hoặc ô nhiễm đất hoặc nước tưới). dù rằng những rủi ro đối với sức khỏe liên can tới dư lượng thuốc trừ sâu trong chế độ ăn uống vẫn chưa chắc chắn và đang được tranh luận, nhưng rủi ro là khá và phơi nhiễm thấp hơn chắc chắn chuyển thành nguy cơ rẻ hơn.
Nuôi trồng thủy sản (nuôi trồng động vật và thực vật thủy sinh) đang mở rộng với tốc độ trung bình 9% mỗi năm kể từ năm 1970. Ngoài ra, số lượng và sự đa dạng của những sản phẩm hữu cơ được chứng thực được cung ứng vẫn còn ít (5000 tấn trong đấy 80% là cá hồi), một phần do không có các tiêu chuẩn được chấp nhận phổ quát và tiêu chí xác nhận nuôi trồng thủy sản hữu cơ. Hơn 91 phần trăm tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản biển thông thường vào năm 1999 được nuôi bằng những loài thực vật thủy sinh và nhuyễn thể ăn ít trong chuỗi thức ăn thủy sản. Với việc có thể áp dụng các khoa học điều hành nước và chất dinh dưỡng phù hợp, triển vẳng tăng sản lượng, bao gồm cả phân phối hữu cơ, của các loài thủy sinh hữu cơ được nuôi và động vật nhuyễn thể là đáng kể.
rất nhiều những sản phẩm nuôi trồng thủy sản hữu cơ được chứng nhận được Thống kê được sản xuất ở châu Âu sử dụng nước biển và nước lợ, một nguồn tài nguyên chưa được khai thác phần đông, Do vậy bảo tàng nguồn phân phối nước ngọt cho con người và nông nghiệp thường ngày. Nuôi trồng thủy sản cũng bao gồm những dòng thực vật thủy sinh hữu cơ dùng trực tiếp cho con người hoặc dùng làm cho thức ăn đầu vào cho chăn nuôi, bao gồm cả ngành nghề chăn nuôi hữu cơ.
Dựa trên những ước lượng Hiện giờ về sản lượng nuôi trồng thủy sản hữu cơ được chứng nhận và tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm được dự đoán là 30% từ năm 2001 đến năm 2010, có thể hy vọng rằng nuôi trồng thủy sản hữu cơ được chứng nhận sẽ tăng đáng nói, khi mà vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản."
https://globalcheck.com.vn/nong-nghiep-huu-co-la-gi